Mặc dù ngành cá tra Việt Nam chiếm thị phần lớn nhất thế giới về kim ngạch xuất khẩu và đứng trước các cơ hội thâm nhập thị trường mới, tuy nhiên vẫn tồn tại những thách thức làm giảm tốc độ bứt phá của toàn ngành.
Cá tra Việt Nam có nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường cá thịt trắng quốc tế
Số liệu của Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC) cho thấy, trong vòng hơn 1 thập kỷ, kể từ năm 2012, phile cá tuyết cod đông lạnh mã HS 030471 luôn là sản phẩm được tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới, chiếm khoảng 13% thị phần cá thịt trắng. Cá tuyết cod được người tiêu dùng ưa chuộng, có giá trị thương hiệu cao, chất lượng thịt tốt, giá trị dinh dưỡng dồi dào, do đó đây là loài có vị trí cao cấp trong ẩm thực nhiều quốc gia.
Đứng sau đó lần lượt là các sản phẩm cá tuyết đông lạnh mã HS 030363, phile cá minh thái Alaska đông lạnh mã HS 030475 và phile cá tra đông lạnh mã HS 030462. Cá minh thái là một lựa chọn thay thế tốt cho cá tuyết với vị ngọt, ít béo, giá cả phải chăng và ổn định hơn so với các loài cá khác và thường được sử dụng để chế biến các sản phẩm cơ bản như cá viên, cá fillet.
Ngoài ra, cá rô phi cũng là một trong những "đối thủ nặng ký" của cá tra. Mặc dù Việt Nam có nuôi và xuất khẩu các sản phẩm cá rô phi, tuy nhiên Trung Quốc mới là nguồn cung lớn nhất loài cá thịt trắng này cho thế giới, đồng thời là đối thủ lớn nhất trong cùng khu vực cạnh tranh với cá tra. Hoa Kỳ là 1 trong 2 thị trường quan trọng nhất của xuất khẩu cá tra Việt Nam, tuy nhiên cá rô phi (chủ yếu đến từ Trung Quốc) thường có vị thế và sức ảnh hưởng lớn hơn so với cá tra tại thị trường này. Cá rô phi giàu protein và các axit amin thiết yếu, giá thành của cá rô phi thường khá "dễ chịu" trên thị trường. Đặc biệt, sản phẩm phile cá rô phi đông lạnh là sản phẩm được ưa thích tại Mỹ.
Nhiều quốc gia đầu tư nuôi cá tra để phục vụ nhu cầu nội địa và giảm nhập khẩu
Năm 1997, xuất khẩu cá tra của Việt Nam chỉ đạt 1,6 triệu USD, năm 2023 xuất khẩu cá tra đạt 1,8 tỷ USD, và ước đạt hơn 2 tỷ USD năm 2024. Sản phẩm cá tra từng được xem là ngành hàng độc quyền của nước ta, tuy nhiên không còn "1 mình một chợ", nhiều quốc gia cũng bắt tay vào nuôi cá tra phục vụ nội địa và giảm NK từ thế giới như Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh, Trung Quốc. Các nước này đều có lợi thế về nguồn nguyên liệu và chi phí sản xuất, tạo ra áp lực không nhỏ lên ngành cá tra Việt Nam.
Trung Quốc là điểm đến lớn nhất của cá tra Việt Nam, tuy nhiên kể từ năm 2023, Hainan Xiangtai Fishery, một trong những nhà xuất khẩu cá rô phi lớn nhất của Trung Quốc tuyên bố đang tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng cá tra để đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa tăng cao. Xây dựng trại sản xuất giống, trung tâm nghiên cứu, dây chuyền chế biến, gia tăng hợp tác, đẩy mạnh truyền thông, phát triển các dịch vụ và đa dạng hóa danh mục sản phẩm theo kênh tiêu dùng khác nhau là các nhiệm vụ mà công ty này đã, đang và sẽ làm để giành thị phần trong chuỗi cung ứng cá tra. Trung Quốc đã nuôi cá tra hơn 7 năm qua, duy trì sản lượng mỗi năm khoảng 1,4 triệu tấn, chủ yếu phục vụ trong nước. Tuy nhiên điều này cũng có nghĩa là quốc gia này sẽ giảm nhập khẩu.
Cá tra Việt Nam chiếm 42% sản lượng cá tra toàn cầu, còn các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Bangladesh chiếm từ 15 - 21%. Cá tra Ấn Độ ngày càng tăng song kích cỡ cá rất nhỏ, chủ yếu cung cấp trong nước. Riêng Indonesia, sản lượng không cao nhưng đã xuất khẩu sang thị trường Trung Đông với nhãn hàng riêng và đang tạo uy tín.
Một số thách thức khác
Ngoài ra một số các vấn đề đã tồn tại lâu của ngành cá tra Việt Nam có thể kể đến như là: chất lượng con giống chưa đồng đều, tỷ lệ sống của cá giống thấp, thức ăn, môi trường nuôi, thời tiết, dịch bệnh,...; Phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại như thuế nhập khẩu, các quy định kỹ thuật,..; Các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của cá tra Việt Nam trên thị trường quốc tế; Việc các thị trường thay đổi chính sách trong khi chi phí sản xuất cá tra ngày càng tăng do giá nguyên liệu đầu vào, giá vật tư tăng khiến giá thành sản xuất cao, chi phí nhân công tăng, cũng ảnh hưởng đến xuất khẩu cá tra.
Không thể phủ nhận độ phủ sóng, sức cạnh tranh và cơ hội thâm nhập sâu hơn vào các thị trường của cá tra Việt Nam trên trường quốc tế, đặc biệt là khi Việt Nam đang có lợi thế từ các FTA thế hệ mới, các hiệp định thương mại, khoảng trống từ sự thiếu hụt nguồn cung ở các thị trường, và được cả thế giới công nhận về chất lượng thịt cá, nguồn gốc rõ ràng. Tuy nhiên, nếu không giải quyết được những khó khăn chung và tận dụng triệt để cơ hội xuất khẩu, cá tra Việt Nam sẽ mãi đứng ở các vị trí phía sau trên bản đồ cá thịt trắng của thế giới. DN cần tranh thủ thời cơ, mạnh dạn đầu tư nghiên cứu sâu hơn nữa các sản phẩm khác, bên cạnh phile cá tra đông lạnh, và tối ưu hóa quy trình sản xuất, kiểm tra chất lượng khắt khe kể từ những khâu chọn lọc đầu tiên.
Tác giả: Thu Hằng
Nguồn: VASEP